Virus Marburg: Con đường lây truyền, cách điều trị và phòng tránh

Virus Marburg: Con đường lây truyền, cách điều trị và phòng tránh

Marburg là loại virus gây nên bệnh xuất huyết nguy hiểm, có khả năng lây nhiễm cao tương tự virus Ebola và có tỷ lệ tử vong lên gần 90%. Vậy virus Marburg là gì? Con đường lây truyền bệnh của virus là như thế nào? Cách phòng ngừa nhiễm virus ra sao?

Bạn đang đọc: Virus Marburg: Con đường lây truyền, cách điều trị và phòng tránh

Virus Marburg là loại virus lây truyền từ động vật sang người, gây nên bệnh truyền nhiễm nguy hiểm là bệnh Marburg, làm xuất huyết nghiêm trọng ở nhiều bộ phận trong cơ thể. Bệnh có tỉ lệ tử vong trung bình 24 – 88%. Hiện nay chưa có vắc-xin và thuốc điều trị đặc hiệu để chữa bệnh này. Hãy tham khảo bài viết sau để tìm hiểu tất cả thông tin về virus Marburg.

Virus Marburg là gì?

Virus Marburg thuộc họ Filovirus, cùng họ với virus Ebola, gây nên bệnh sốt xuất huyết, là bệnh hiếm gặp nhưng có tỷ lệ tử vong cao.

Vào năm 1967, virus Marburg được phát hiện lần đầu tại một phòng thí nghiệm ở Marburg và Frankfut, Đức. Loài dơi ở Châu Phi, Rousettus aegyptiacus là ký chủ của loại virus này. Tuy nhiễm virus nhưng loài dơi này không biểu hiện bệnh. Trong khi động vật hay người bị nhiễm bệnh này có thể trở nặng với tỷ lệ tử vong cao.

Bệnh do virus Marburg gây ra có nhiều điểm tương tự về mặt lâm sàng với virus Ebola như quá trình virus phát triển trong cơ thể, mức độ hay cách thức lây bệnh có cùng những triệu chứng và biến chứng và có nguy cơ bùng dịch với tỷ lệ tử vong cao.

Virus Marburg: Con đường lây truyền, cách điều trị và phòng tránh

Virus Marburg gây nên bệnh sốt xuất huyết, là bệnh hiếm gặp nhưng có tỷ lệ tử vong cao

Con đường lây truyền

Nguyên nhân bị nhiễm virus Marburg ở người thường là do tiếp xúc lâu với chất tiết hay phân của dơi Rousettus trong hầm mỏ.

Virus có thể tồn tại nhiều ngày ở bề mặt trung tính tại nhiệt độ phòng và trong môi trường chất thải người bệnh. Sau khi khỏi bệnh, virus Marburg vẫn còn tồn tại ở tinh hoàn và bên trong mắt trong một số trường hợp. Nếu mẹ bị nhiễm bệnh trong thời gian mang thai, virus sẽ có trong nước ối, nhau thai và cả thai nhi. Ở những phụ nữ bị nhiễm virus Marburg trong khi đang cho con bú, virus có nguy cơ tồn tại trong sữa mẹ.

Những người bị nhiễm virus có thể lây nhiễm trực tiếp qua các con đường sau:

  • Tiếp xúc trực tiếp (khi da bị trầy xước hay qua niêm mạc) với chất tiết, máu, tạng hay dịch cơ thể;
  • Tiếp xúc trực tiếp ngay cả trên bề mặt hay dụng cụ (quần áo, drap giường) bị lây nhiễm dịch tiết;
  • Lây truyền qua đường tình dục;
  • Nhân viên y tế có nguy cơ bị lây bệnh rất cao do thường xuyên tiếp xúc với người nhiễm bệnh mà không có biện pháp kiểm soát nhiễm trùng nghiêm ngặt;
  • Lây nhiễm khi tiếp xúc các thiết bị y tế nhiễm bẩn như kim tiêm.

Virus Marburg: Con đường lây truyền, cách điều trị và phòng tránh

Virus Marburg có thể lây nhiễm qua các thiết bị y tế nhiễm bẩn như kim tiêm

Dấu hiệu khi bị nhiễm virus Marburg

Bệnh sốt xuất huyết do nhiễm virus Marburg có thời gian ủ bệnh từ 2 – 21 ngày trước khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên của bệnh. Virus Marburg không có tính lây nhiễm trong thời gian ủ bệnh.

Sau đó, các dấu hiệu bệnh thường khởi phát đột ngột với các triệu chứng dưới đây:

  • Đau đầu, đau họng kèm sốt cao, gây mệt mỏi dữ dội. Triệu chứng đau cơ rất thường gặp. Từ ngày thứ ba có thể xuất hiện triệu chứng đau bụng, tiêu chảy nước (kéo dài cả tuần), vọp bẻ, nôn và buồn nôn. Trong giai đoạn này, bệnh nhân trông hốc hác, thất thần với mắt thâm quầng, trũng sâu.
  • Sau khởi phát bệnh, trong khoảng 15 ngày bệnh nhân có thể nổi sẩn hồng ban, thường ở phần thân như ngực, lưng, bụng trên.
  • Trong vòng 7 ngày đầu có thể xảy ra xuất huyết và là nguyên nhân gây tử vong do bị xuất huyết nhiều nơi. Xuất huyết tiêu hóa với các triệu chứng như ói ra máu, tiêu ra máu tươi thường kèm chảy máu mũi, máu răng hay xuất huyết âm đạo. Tình trạng bị xuất huyết tự nhiên hay chảy máu nơi tiêm chích đặc biệt nghiêm trọng. Bệnh nhân thường sốt cao trong suốt thời gian này. Ngoài ra bệnh nhân có thể bị lú lẫn, kích thích và kích động do bệnh ảnh hưởng đến hệ thần kinh.
  • Khoảng 15 ngày sau mới xuất hiện tình trạng viêm tinh hoàn.
  • Thường sau 7 – 8 ngày khởi phát bệnh, người bệnh có thể tử vong do mất máu hay bị sốc. Các triệu chứng diễn tiến nặng bao gồm viêm tụy, vàng da, suy gan, suy đa cơ quan và xuất huyết nặng.

Nguyên nhân gây bệnh

Giống như con đường lây truyền, những người nhiễm virus Marburg có thời gian dài làm việc hoặc tiếp xúc trong các hang động có loài dơi Rousettus sinh sống. Virus Marburg có thể lây lan từ động vật sang người, từ người sang người và lây qua các vật thể bị ô nhiễm.

Vì vậy những đối tượng có nguy cơ cao nhiễm virus Marburg gồm người thường xuyên sống và làm việc trong khu vực có dơi ăn quả châu Phi hay động vật linh trưởng; nhân viên y tế, nhân viên phòng thí nghiệm, nhân viên tiếp xúc các thiết bị y tế; khách du lịch…

Tìm hiểu thêm: Đo dấu sinh hiệu là gì? Mục tiêu và nguyên tắc khi thực hiện đo dấu sinh hiệu

Virus Marburg: Con đường lây truyền, cách điều trị và phòng tránh
Người nhiễm virus Marburg có thời gian dài tiếp xúc trong hang động có loài dơi Rousettus sống

Chẩn đoán nhiễm virus Marburg

Việc chẩn đoán lâm sàng virus Marburg sớm và chính xác thật không dễ dàng vì các triệu chứng của virus Marburg tương tự nhiều bệnh truyền nhiễm khác như sốt thương hàn hay sốt rét, viêm màng não và các bệnh sốt xuất huyết do virus khác như Ebola.

Nếu là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh Marburg, người bệnh cần phải cách ly để giảm thiểu thấp nhất nguy cơ lây nhiễm.

Để chẩn đoán chính xác người bệnh có thật sự bị nhiễm Marburg hay không, bác sĩ sẽ thực hiện các xét nghiệm như:

  • Mẫu bệnh phẩm: Lấy máu, lấy dịch não tủy, nước bọt và một số dịch tiết khác của cơ thể.
  • Xét nghiệm ELISA antigen hoặc IgM/IgG: Xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme nhằm phát hiện kháng thể IgM (mới nhiễm) hoặc IgG (từng nhiễm) trong máu chứng tỏ người bệnh đã tiếp xúc với virus.
  • Xét nghiệm PCR: Xét nghiệm này để xác định dấu ấn di truyền của virus thông qua tìm kiếm vật chất di truyền của virus, cụ thể là RNA.

Ngoài ra còn có các phương pháp chẩn đoán chuyên sâu hơn như tiến hành phân lập virus bằng nuôi cấy tế bào hoặc thu thập mẫu bệnh học, rồi nghiên cứu bằng kính hiển vi điện tử.

Phương pháp điều trị

Khác với virus Ebola, cho tới nay vẫn chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu nào hay vắc xin với virus Marburg. Nguyên tắc điều trị chính của bệnh này là phát hiện sớm, từ đó điều trị sớm, chủ yếu tập trung nâng đỡ, thở oxy, bù nước điện giải trong trường hợp cần điều trị triệu chứng như giảm sốt, giảm đau, chống xuất huyết, hỗ trợ tim mạch, chống suy thận hay suy gan, chống sốc hay dị ứng và hạn chế các biến chứng xảy ra ở mức thấp nhất.

Trường hợp người nhiễm Marburg có các dấu hiệu liên quan tới bội nhiễm vi khuẩn mới dùng kháng sinh. Việc điều trị như trên giúp điều trị triệu chứng bệnh cụ thể đồng thời tăng cơ hội sống cho người bệnh.

Hiện tại, các nhà khoa học đang phát triển protein hỗ trợ hệ miễn dịch giúp cơ thể chống trả tốt hơn khi bị virus Marburg xâm nhập và tấn công.

Rất hiếm gặp tình trạng tái phát bệnh nhưng vẫn có thể xảy ra ở một số người nhưng chưa rõ nguyên nhân.

Virus Marburg: Con đường lây truyền, cách điều trị và phòng tránh

Thở oxy là một trong những cách điều trị triệu chứng khi nhiễm virus Marburg

Phương pháp phòng ngừa virus Marburg

Do chưa có vắc xin hay phương pháp điều trị đặc hiệu với virus Marburg nên cách phòng ngừa Marburg phần lớn sử dụng thiết bị bảo hộ cá nhân cũng như tránh không tiếp xúc động vật có nguy cơ mang virus. Cần lưu ý những điều sau:

  • Cách ly, hạn chế tiếp xúc với người bị nhiễm hoặc nghi nhiễm virus.
  • Trước khi tiếp xúc với người bị nhiễm hay nghi nhiễm virus, cần trang bị các thiết bị bảo hộ như găng tay, áo choàng, khẩu trang, kính mắt,…
  • Sử dụng thiết bị y tế dùng một lần như kim tiêm. Sau khi tiếp xúc với dịch cơ thể nhiễm virus Marburg, cần khử trùng kỹ càng những thiết bị dùng lại.
  • Thận trọng, tránh tiếp xúc với các chất thải như máu/bãi nôn… hoặc bất cứ vật dụng của người bệnh.
  • Cần phòng ngừa với cả những người tiếp xúc với người bệnh.
  • Tránh các vật chủ có nguy cơ tiềm ẩn chứa virus Marburg.
  • Sau khi chăm sóc người bệnh nên rửa tay thường xuyên.
  • Để ngăn chặn ổ dịch bùng phát, cần chôn cất nhanh chóng, an toàn người đã khuất; theo dõi những người có nguy cơ cao lây nhiễm bệnh trong 21 ngày.
  • Tránh ăn thịt sống tái, nấu chín kỹ tất cả loại thịt trước khi ăn.
  • Để phòng ngừa Marburg khi quan hệ tình dục, tổ chức WHO khuyến cáo nam giới khỏi bệnh chỉ nên quan hệ tình dục sau hơn 12 tháng kể từ khi xuất hiện triệu chứng bệnh hoặc sau khi có 2 lần xét nghiệm tinh dịch âm tính với virus Marburg.
  • Tuyên truyền, giáo dục cộng đồng về cách nhận biết, phòng ngừa và cách xử lý khi bị nhiễm virus.

Virus Marburg: Con đường lây truyền, cách điều trị và phòng tránh

>>>>>Xem thêm: Người già mất ngủ nên uống gì? Các biện pháp chữa khó ngủ người lớn tuổi nên biết

Để phòng ngừa virus Marburg, tránh ăn thịt tái sống, nấu chín thịt trước khi ăn

Tóm lại, virus Marburg gây nên bệnh sốt xuất huyết rất nguy hiểm vì có nguy cơ cao dẫn đến tử vong. Do không có phương pháp điều trị đặc hiệu cũng như vắc xin phòng chống nên tốt nhất chúng ta cần phòng ngừa bệnh.

Xem thêm:

Tăng cường giám sát phòng, chống dịch bệnh Marburg

Tổng quan bệnh kiết lỵ và cách phòng chống hiệu quả

Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể. Xem thêm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *